Sign In

Đại dương: “Không gian chung, trách nhiệm chung” - Việt Nam cùng thế giới hành động

09:19 11/06/2025

Chọn cỡ chữ A a  

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, suy giảm đa dạng sinh học và ô nhiễm môi trường biển đang đe dọa nghiêm trọng đến sinh kế hàng triệu người, nhất là các quốc gia ven biển, Việt Nam tiếp tục khẳng định vai trò là quốc gia có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, hành động quyết liệt vì sự phát triển bền vững của đại dương. Việc Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam Đỗ Đức Duy cùng đoàn lãnh đạo cấp cao Việt Nam tham dự Hội nghị Đại dương Liên Hợp Quốc lần thứ ba (UNOC3) diễn ra từ ngày 9 -13/6 tại thành phố Nice (Pháp) không chỉ thể hiện rõ cam kết mạnh mẽ mà còn là minh chứng cho tinh thần chủ động, hợp tác và hội nhập sâu rộng của Việt Nam trong các vấn đề môi trường toàn cầu.

Từ cam kết chính trị đến hành động thực chất

Hội nghị Đại dương Liên Hợp Quốc lần thứ 03 là diễn đàn đa phương quan trọng nhất về đại dương trong khuôn khổ Liên Hợp Quốc, nơi các quốc gia cùng thảo luận, chia sẻ và đưa ra các hành động cụ thể nhằm thực hiện Mục tiêu Phát triển bền vững số 14 (SDG 14): “Bảo tồn và sử dụng bền vững đại dương, biển và tài nguyên biển”.

 

Tại diễn đàn này, Việt Nam một lần nữa nhấn mạnh cam kết mạnh mẽ trong việc bảo vệ môi trường biển, phát triển kinh tế biển xanh, chống ô nhiễm nhựa đại dương và ứng phó với biến đổi khí hậu. Phát biểu của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy tại các phiên thảo luận cấp cao là tiếng nói đại diện cho hàng triệu ngư dân và cộng đồng ven biển đang chịu tác động trực tiếp từ nước biển dâng, xâm nhập mặn, cạn kiệt nguồn lợi hải sản và rác thải nhựa đại dương.

Không chỉ dừng lại ở các tuyên bố chính trị, Việt Nam đang tích cực hành động với nhiều chương trình, kế hoạch cụ thể: Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045; Đề án chống rác thải nhựa đại dương; Chương trình quản lý tổng hợp tài nguyên vùng bờ và đặc biệt là cam kết chuyển đổi nghề cá theo hướng có trách nhiệm, bền vững, hướng đến gỡ “thẻ vàng” EU và tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu minh bạch, công bằng.

Đại dương - lợi ích không biên giới, trách nhiệm chung toàn cầu

Đại dương bao phủ hơn 70% diện tích bề mặt Trái đất, là cái nôi của sự sống, điều hòa khí hậu toàn cầu, và cung cấp sinh kế cho hàng tỷ người. Tuy nhiên, với tính chất xuyên biên giới, đại dương không thuộc sở hữu riêng của bất kỳ quốc gia nào. Những vấn đề mà đại dương đang đối mặt từ khai thác cạn kiệt nguồn lợi, ô nhiễm rác thải nhựa, đến axit hóa, mực nước biển dâng đều có tính chất liên vùng, liên quốc gia và không thể giải quyết đơn lẻ. Bởi vậy, tư duy quản trị biển không thể là “quyền khai thác”, mà phải là “trách nhiệm gìn giữ”.

Trong bối cảnh đó, cộng đồng quốc tế đã và đang nỗ lực xây dựng khung khổ pháp lý và hợp tác toàn cầu nhằm bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên biển. Nổi bật là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) được coi là “hiến pháp của đại dương”, đặt nền móng cho quản trị biển dựa trên nguyên tắc công bằng, bền vững và thượng tôn pháp luật. Việt Nam với tư cách là quốc gia ven biển tích cực đã sớm phê chuẩn UNCLOS 1982, tham gia nhiều cơ chế toàn cầu và khu vực như: Ủy ban nghề cá Tây Thái Bình Dương, Sáng kiến Đối tác đại dương Đông Á (PEMSEA) và mới đây là Hiệp định BBNJ (Hiệp định bảo tồn đa dạng sinh học biển ở vùng ngoài quyền tài phán quốc gia).

Tại Hội nghị Đại dương Liên Hợp Quốc lần thứ 03 (UNOC3), Việt Nam tiếp tục nhấn mạnh thông điệp xuyên suốt: Phát triển kinh tế biển không thể tách rời trách nhiệm bảo vệ biển. Đại dương không thể tiếp tục là “vùng đệm hấp thụ” rác thải, khí CO₂ hay hậu quả của phát triển thiếu kiểm soát. Những gì xảy ra tại một vịnh, một cửa biển, hay một vùng khai thác,… cuối cùng cũng sẽ lan truyền tới toàn bộ hệ sinh thái biển toàn cầu thông qua dòng chảy hải lưu, chuỗi thức ăn, và biến đổi khí hậu.

Thủ tướng Phạm Minh Chính thể hiện rõ phương châm hợp tác chặt chẽ với các quốc gia, khu vực trong thực hiện "mục tiêu kép", vừa góp phần đảm bảo an ninh lương thực thế giới, vừa nỗ lực giảm gánh nặng ô nhiễm môi trường biển.

Cụ thể, tại phiên Hội nghị Thượng đỉnh về đồng bằng châu thổ thế giới do Việt Nam và Iraq đồng chủ trì, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh vai trò chiến lược của Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng - những khu vực có vai trò sống còn với an ninh lương thực trong khu vực và trên thế giới. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cam kết thực hiện các chính sách phát triển bền vững, hợp tác quốc tế trong việc quản lý tài nguyên nước và bảo vệ hệ sinh thái, đồng thời xây dựng cơ sở hạ tầng chống chịu thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Tại chuyên đề về quản lý nghề cá bền vững, Việt Nam nêu rõ mục tiêu thúc đẩy các mô hình quản lý bền vững như đồng quản lý và bảo vệ tài nguyên biển, tiếp tục triển khai các chương trình hỗ trợ cộng đồng ngư dân, bao gồm việc áp dụng các công nghệ mới, tăng cường quản lý nghề cá và chống khai thác bất hợp pháp (IUU).

Thủ tướng chia sẻ kinh nghiệm của Việt Nam

Trong 6 phiên chuyên đề mà Việt Nam tham gia, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và các thành viên đoàn Việt Nam đã tuyên bố các ưu tiên chiến lược, bao gồm: Bảo vệ hệ sinh thái biển, đặc biệt là rạn san hô, rừng ngập mặn và thảm cỏ biển; Phát triển kinh tế biển xanh, đi đôi với bảo tồn tài nguyên; Quản lý nghề cá bền vững, hỗ trợ sinh kế cho ngư dân quy mô nhỏ; Chống khai thác hải sản bất hợp pháp (IUU); Giảm ô nhiễm nhựa đại dương và cải thiện hệ thống kiểm soát từ đất liền; Thúc đẩy hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học, công nghệ giám sát và chia sẻ dữ liệu môi trường biển.

Không chỉ dừng lại ở lời nói, những cam kết của Việt Nam tại UNOC3 là sự tiếp nối và nâng tầm của các hành động thực tế đã và đang được triển khai trong nước, là cột mốc đánh dấu một bước chuyển mạnh mẽ trong cách thế giới nhìn nhận vai trò của đại dương đối với hòa bình, an ninh, phát triển bền vững và tương lai hành tinh.

Bộ trưởng Đỗ Đức Duy khẳng định: “Với sự cam kết và hợp tác quốc tế mạnh mẽ, chúng ta sẽ bảo vệ được đại dương, phát triển bền vững kinh tế biển”. Với vai trò ngày càng tích cực trên trường quốc tế, Việt Nam không chỉ khẳng định vị thế quốc gia trong thúc đẩy kinh tế biển xanh, mà còn là đối tác trách nhiệm, bạn đồng hành tin cậy của cộng đồng quốc tế trong việc bảo tồn và sử dụng bền vững quyền lợi đại dương.

Không một quốc gia nào có thể đơn độc hành động để bảo vệ đại dương. Đó là không gian sinh học và phát triển chung của nhân loại. Việt Nam, với tư cách là thành viên tích cực của các hiệp định, công ước quốc tế như UNCLOS 1982, Công ước Basel, Công ước đa dạng sinh học (CBD), và mới đây là Hiệp định BBNJ về bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học biển ngoài vùng tài phán quốc gia, luôn đề cao vai trò của luật pháp quốc tế, hợp tác đa phương và chia sẻ khoa học, công nghệ.

Tại UNOC3, Việt Nam kêu gọi tăng cường tài chính khí hậu, chuyển giao công nghệ xanh, hỗ trợ kỹ thuật cho các nước đang phát triển ven biển. Trong đó, việc xây dựng năng lực giám sát, dự báo và kiểm soát ô nhiễm đại dương, cũng như tăng cường hệ thống quản trị nghề cá dựa vào cộng đồng và dữ liệu khoa học là chìa khóa để đạt được sự phục hồi lâu dài cho biển.

Gắn kết toàn dân, thúc đẩy hành động tại chỗ

Tại Việt Nam, việc triển khai các mục tiêu phát triển bền vững về biển đã và đang được nội luật hóa qua nhiều chủ trương, chương trình cụ thể. Ví dụ, Đề án giảm thiểu rác thải nhựa đại dương đến năm 2030 đặt mục tiêu giảm ít nhất 75% rác thải nhựa trên biển, vận động ngư dân không xả lưới hỏng, ngư cụ xuống biển và hình thành các mô hình "chợ không túi nylon", "bến cá sạch". Chương trình phát triển kinh tế biển xanh yêu cầu các địa phương tích hợp mục tiêu bảo vệ môi trường vào quy hoạch không gian biển, chuyển đổi mô hình phát triển từ “khai thác tài nguyên” sang “sống hài hòa với tự nhiên”.

Không thể không nhắc đến vai trò của người dân ven biển, lực lượng tuyến đầu của bảo vệ đại dương. Chính họ là người thu gom rác trên bãi biển, là người thay đổi thói quen tiêu dùng, là người đồng hành trong các mô hình đồng quản lý nghề cá. Các tổ đội tự quản cộng đồng tại nhiều địa phương như Quảng Nam, Phú Yên, Khánh Hòa, Bà Rịa - Vũng Tàu,… đã chứng minh: Khi người dân được trao quyền, được tiếp cận thông tin và đồng hành trong quá trình hoạch định, họ sẽ trở thành những "người gác biển" tận tụy, hiệu quả nhất.

Bên cạnh đó, vai trò của doanh nghiệp cũng cần được nhấn mạnh. Các sáng kiến “doanh nghiệp xanh”, liên minh chống rác thải nhựa, đầu tư vào công nghệ xử lý nước thải và nuôi trồng biển bền vững đang cho thấy động lực đổi mới từ khu vực tư nhân là rất lớn. Việc gắn trách nhiệm môi trường vào chuỗi giá trị, hướng tới tiêu chuẩn xanh - sạch - minh bạch trong xuất khẩu hải sản là cách tiếp cận thực chất, hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo vệ sinh thái.

Cam kết quốc tế chỉ thực sự hiệu quả khi được nội luật hóa và lan tỏa tới từng địa phương, cộng đồng. Việt Nam đã và đang triển khai các Tuần lễ Biển và Hải đảo, Ngày Đại dương Thế giới với nhiều hoạt động thiết thực: dọn sạch bãi biển, thả giống tái tạo nguồn lợi, đối thoại chính sách ngư nghiệp, trưng bày khoa học biển… Đặc biệt, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã cùng với các tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp và người dân, đang từng bước hiện thực hóa các mục tiêu xanh hóa ngành khai thác thủy sản, chống khai thác bất hợp pháp (IUU), chuyển dịch mô hình tăng trưởng theo hướng kinh tế tuần hoàn và sinh thái biển.

Sự hiện diện và phát biểu của Bộ trưởng Đỗ Đức Duy tại Hội nghị UNOC3 không chỉ mang thông điệp ngoại giao môi trường mà còn khẳng định: "Việt Nam quyết tâm hành động vì tương lai xanh của đại dương, trong tinh thần trách nhiệm, đoàn kết quốc tế và tôn trọng thiên nhiên".

Từ diễn đàn toàn cầu UNOC3 tại thành phố Nice (Pháp), Việt Nam đã thể hiện một cách rõ nét quyết tâm chính trị, hành động cụ thể và khát vọng phát triển hài hòa với đại dương - không chỉ với tư cách là quốc gia ven biển dài hơn 3.000 km, mà còn với tư thế một thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.

Bảo vệ đại dương không còn là lựa chọn, mà là yêu cầu cấp thiết để bảo vệ chính sự sống, kinh tế và an ninh môi trường của cả nhân loại. Trong tiến trình đó, Việt Nam không đứng ngoài, mà đang tích cực góp phần định hình cách tiếp cận mới - dựa trên pháp luật quốc tế, hợp tác đa phương, khoa học, công nghệ và nhất là sự tham gia thực chất của người dân và doanh nghiệp.

Đại dương là tài sản chung, là không gian sinh tồn không biên giới. Muốn phát triển kinh tế biển bền vững, không thể chỉ tính đến lợi ích quốc gia mà phải hài hòa trong tổng thể toàn cầu. Và chính từ những hành động tại chỗ những bến cá sạch, những ngư dân không đánh bắt tận diệt, những bãi biển không rác sẽ tạo nên sức mạnh thực sự để hiện thực hóa các cam kết toàn cầu.

Việt Nam đang đi đúng hướng. Điều cần thiết lúc này là tiếp tục duy trì cam kết, đẩy mạnh thực thi, lan tỏa tinh thần “hành động vì đại dương” vào mọi cấp, mọi ngành, mọi người dân. Bởi tương lai của đại dương cũng chính là tương lai của chúng ta. 

Từ Nice - thành phố ven Địa Trung Hải, thông điệp Việt Nam mang tới là lời cam kết đầy trách nhiệm: Bảo vệ đại dương không chỉ vì hôm nay mà còn cho thế hệ mai sau. Trong thế giới toàn cầu hóa, biển không còn là ranh giới mà là nơi kết nối. Bảo vệ đại dương chính là bảo vệ sự sống, phát triển và hòa bình bền vững của nhân loại.

 

Hồng Minh - Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường

Ý kiến

Biển không chỉ có cá: Mô hình mới phát triển kinh tế biển xanh Việt Nam

Biển không chỉ có cá: Mô hình mới phát triển kinh tế biển xanh Việt Nam

Biển không chỉ là nguồn sống, nguồn sinh kế của hàng chục triệu người Việt Nam. Khi thế giới chuyển mình khỏi dầu khí để hướng tới năng lượng tái tạo và kinh tế xanh, biển đang trở thành không gian của điện gió, nuôi biển tuần hoàn và bảo tồn sinh học. Việt Nam, với bờ biển dài và tầm nhìn mới, đang định nghĩa lại cách phát triển kinh tế từ đại dương và có cơ hội vươn lên thành quốc gia mạnh về biển một cách bền vững
Cam kết mạnh mẽ và phép thử vì sức khỏe đại dương

Cam kết mạnh mẽ và phép thử vì sức khỏe đại dương

Chúng ta đã khép lại một hội nghị thành công với không chỉ hy vọng mà còn với những cam kết cụ thể, định hướng rõ ràng và động lực không thể phủ nhận
Giữ rừng rong mơ giữa biển xanh

Giữ rừng rong mơ giữa biển xanh

Khai thác rong mơ ở Quảng Ngãi dần đi vào nền nếp nhờ sự hỗ trợ quốc tế, góp phần bảo vệ thủy sinh và ổn định sinh kế người dân ven biển