Biển không chỉ là nguồn sống, nguồn sinh kế của hàng chục triệu người Việt Nam. Khi thế giới chuyển mình khỏi dầu khí để hướng tới năng lượng tái tạo và kinh tế xanh, biển đang trở thành không gian của điện gió, nuôi biển tuần hoàn và bảo tồn sinh học. Việt Nam, với bờ biển dài và tầm nhìn mới, đang định nghĩa lại cách phát triển kinh tế từ đại dương và có cơ hội vươn lên thành quốc gia mạnh về biển một cách bền vững
Kinh tế biển toàn cầu đang tái định nghĩaTheo TS. Dư Văn Toán, Viện Khoa học Môi trường biển và hải đảo (Bộ Nông nghiệp và Môi trường – Bộ NN&MT) chuyển dịch về đầu tư kinh tế biển là xu hướng tất yếu. Tới năm 2030, nền kinh tế đại dương có thể đạt hơn 3 nghìn tỷ USD và khoảng 40 triệu việc làm sẽ được tạo ra. Các lĩnh vực tăng trưởng nhanh nhất là điện gió ngoài khơi, nuôi trồng thủy sản biển, chế biến cá và dịch vụ cảng biển.
Hiện tại, khoảng 80% vốn đầu tư biển vẫn tập trung vào dầu khí. Tuy nhiên, đến năm 2050, tỷ lệ này sẽ giảm còn 25%, trong khi điện gió ngoài khơi sẽ chiếm 50%. Điều này phản ánh một xu hướng dịch chuyển lớn trong cấu trúc đầu tư toàn cầu.
TS. Dư Văn Toán, Viện Khoa học Môi trường biển và hải đảo Bộ Nông nghiệp và Môi trườngĐiều đáng chú ý là mức sinh lời từ kinh tế biển xanh vượt trội. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư (ROI) trung bình từ điện gió, nuôi biển, rừng ngập mặn đạt từ 3:1 đến 17:1, gấp nhiều lần so với đầu tư truyền thống. Báo cáo “Tương lai đại dương 2050” phát hành tháng 4/2024 của DNV tại cho thấy, nếu đầu tư 2.000 tỷ USD vào bốn lĩnh vực biển xanh, có thể thu về lợi ích kinh tế – xã hội lên tới 15.500–22.800 tỷ USD trong 30 năm.
Một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á cũng đã bước vào cuộc đua kinh tế biển xanh với tốc độ khác nhau. Indonesia hiện dẫn đầu về diện tích nuôi biển và tiềm lực thủy sản, đồng thời đặt mục tiêu đến năm 2045 trở thành quốc gia biển hàng đầu thế giới, với trọng tâm là phát triển điện gió gần bờ, logistics đảo và bảo tồn đa dạng sinh học vùng biển đảo.
Philippines, dù diện tích không lớn, nhưng đã đi đầu trong phát triển năng lượng tái tạo ven biển với hơn 20 khu vực khảo sát điện gió ngoài khơi, và đã ban hành Đạo luật Kinh tế xanh nhằm thu hút đầu tư tư nhân vào các ngành biển phi truyền thống như du lịch sinh thái và hydrogen biển.
Trong khi đó, Thái Lan chú trọng phát triển các cảng nước sâu và chuỗi logistics biển gắn với hành lang công nghiệp phía Đông (EEC). Nước này đã thiết lập Khu bảo tồn biển quốc gia lớn nhất ASEAN và đặt mục tiêu 30% diện tích biển thuộc diện bảo vệ vào năm 2030.
Trung Quốc dự kiến sẽ vươn lên chiếm 26% tổng vốn đầu tư kinh tế biển toàn cầu vào năm 2050, vượt qua EU; Đông Nam Á sẽ chiếm 8%, trong đó Việt Nam có cơ hội lớn nhờ bờ biển dài, tài nguyên gió phong phú và vị trí địa chính trị chiến lược.
So với các nước trong khu vực, Việt Nam có lợi thế địa hình bờ biển dài, tài nguyên gió tốt và hệ thống chính sách đang dần hoàn thiện. Tuy nhiên, để bắt kịp tốc độ, cần đẩy nhanh việc hình thành các cụm cảng biển xanh, hệ sinh thái đầu tư tích hợp và các cơ chế ưu đãi thực chất hơn để thu hút nhà đầu tư quốc tế.
Nghị định 65/2025/NĐ-CP của Chính phủ ban hành tháng 3/2025 được xem là đột phá thể chế lớn nhất trong việc quản lý, giao khu vực biển cho các hoạt động điện gió ngoài khơi, nuôi biển, nghiên cứu khoa học.
Theo TS. Nguyễn Thị Gấm, Trưởng phòng Chính sách – Pháp chế, Cục Biển và Hải đảo Việt Nam, quy định mới đã cắt giảm đáng kể thủ tục hành chính, minh bạch hoá cơ chế tiếp cận không gian biển và tăng quyền chủ động cho địa phương.
Đặc biệt, lần đầu tiên quy định các trường hợp miễn thủ tục giao khu vực biển cho mục đích nghiên cứu, giám sát môi trường, thí điểm công nghệ. Điều này mở đường cho sự tham gia mạnh mẽ hơn từ khu vực tư nhân, viện nghiên cứu quốc tế và các start-up công nghệ biển.
Cùng với đó, Quy hoạch không gian biển quốc gia giúp định vị rõ ràng các vùng biển ưu tiên cho bảo tồn, phát triển năng lượng tái tạo, khai thác tài nguyên, và đa mục tiêu. Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 cũng dành dư địa cho điện gió ngoài khơi lên đến 6–17 GW vào năm 2035, tạo nền tảng huy động dòng vốn xanh quốc tế.
Việt Nam hiện có tiềm năng điện gió ngoài khơi thuộc hàng lớn nhất Đông Nam Á, với tổng công suất kỹ thuật ước tính lên tới 600 GW, theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (6/2025). Dọc theo các vùng ven biển như Bạc Liêu, Ninh Thuận, Quảng Bình, Hải Phòng... nhiều dự án khảo sát và phát triển đã được cấp phép hoặc đang trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư.
Điện gió ngoài khơi không chỉ giúp giảm phát thải CO2, mà còn góp phần ổn định hệ thống điện quốc gia, phát triển công nghiệp phụ trợ và nâng cao năng lực nội địa hóa. Tuy nhiên, chi phí đầu tư cao, hạ tầng cảng chuyên dụng hạn chế và yêu cầu khảo sát môi trường biển phức tạp vẫn là những thách thức mà Việt Nam cần giải quyết đồng bộ.
Về chính sách thu hút đầu tư, Việt Nam đã và đang hoàn thiện các khung pháp lý quan trọng như Nghị định 65/2025/NĐ-CP, Quy hoạch không gian biển quốc gia, Quy hoạch điện VIII, đồng thời tích cực đàm phán các cơ chế mua điện dài hạn (PPA) riêng cho điện gió ngoài khơi. Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia, việc thiếu khung giá điện ổn định, rủi ro ngoại tệ khi giá mua điện bằng đồng Việt Nam và chưa có cơ chế ưu đãi tín dụng vẫn là rào cản lớn đối với các nhà đầu tư quốc tế.
Trong khi đó, các quốc gia như Vương quốc Anh, Đức hay Đan Mạch đều có những bài học đáng tham khảo. Vương quốc Anh thành công nhờ mô hình đấu thầu hợp đồng chênh lệch (CfD), cam kết giá điện đầu ra ổn định trong 15–20 năm và đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng cảng – logistics biển. Đan Mạch, quốc gia tiên phong về điện gió ngoài khơi, đã hình thành cụm công nghiệp phụ trợ nội địa quy mô lớn, từ sản xuất cánh quạt, trụ gió đến lắp ráp ngoài khơi. Đức kết hợp giữa quy hoạch không gian biển chặt chẽ và hỗ trợ tín dụng xanh từ ngân hàng phát triển (KfW).
Theo Ngân hàng Thế giới, nếu Việt Nam đạt 10 GW điện gió ngoài khơi đến năm 2035, có thể tạo ra hơn 60.000 việc làm trực tiếp và gián tiếp, đóng góp khoảng 50 tỷ USD vào GDP trong vòng 20 năm. Báo cáo cũng nhấn mạnh vai trò quyết định của công nghiệp hỗ trợ: mỗi USD đầu tư vào điện gió sẽ tạo hiệu ứng lan tỏa nếu đi kèm với chính sách nội địa hóa linh hoạt, đào tạo nhân lực và kết nối doanh nghiệp trong nước với các tập đoàn toàn cầu.
Trong Báo cáo Quy hoạch ngành điện gió ngoài khơi của Ngân hàng thế giới tại Việt Nam, ông Rahul Kitchlu, Trưởng nhóm Chương trình Năng lượng, cho biết: “Chúng tôi tin rằng điện gió ngoài khơi sẽ không chỉ cung cấp năng lượng sạch cho Việt Nam mà còn mở ra ngành công nghiệp biển mới, tạo việc làm và thu hút đầu tư quốc tế quy mô lớn.”
Phát triển kinh tế biển xanh theo mô hình hệ sinh thái tích hợpTài nguyên gió khơi là vô tận. Tuy nhiên ngoài năng lượng, các trụ cột thiết yếu khác của kinh tế biển là bảo tồn hệ sinh thái biển và phát triển ngành thủy sản xanh.
Theo Cục Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ NN&MT), năm 2024 Việt Nam đạt sản lượng 9,6 triệu tấn thủy sản, xuất khẩu 10,07 tỷ USD – đứng thứ 4 toàn cầu. Tuy nhiên, sản lượng khai thác đang giảm 14%, tài nguyên suy kiệt nhanh, đặc biệt là tại các vùng biển truyền thống như Nam Trung Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long.
Tại hội thảo Thể chế, quy hoạch - Cơ hội cho phát triển kinh tế biển xanh do Bộ NN&MT phối hợp với UBND tỉnh Quảng Bình tổ chức, ông Lê Trần Nguyên Hùng, Phó Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư cho biết, Việt Nam hiện có 27 khu bảo tồn biển cấp quốc gia và 149 khu vực khoanh vùng khai thác có kiểm soát. Diện tích được bảo tồn mới chỉ chiếm 0,46% diện tích biển cả nước – thấp hơn rất nhiều so với mục tiêu 3% theo Chiến lược quốc gia.
Trong bối cảnh đó, việc tái cấu trúc chiến lược ngành thủy sản, theo hướng nuôi biển quy mô lớn, nuôi sinh thái, phát triển nghề cá có trách nhiệm, đang trở thành yêu cầu sống còn.
Quảng Bình là địa phương có tiềm năng lớn để thí điểm mô hình kết hợp giữa nuôi biển tuần hoàn và bảo tồn, với khu bảo tồn Gò Đồi Ngầm (27.390 ha) và vùng cư trú nhân tạo Hòn La – Vũng Chùa. Việc hình thành các khu này không chỉ nhằm khôi phục nguồn lợi mà còn phục vụ nghiên cứu khoa học biển, phát triển du lịch sinh thái và kết nối chuỗi giá trị thủy sản xanh.
Ông Phan Xuân Hào, Phó Giám đốc Sở NN&MT tỉnh Quảng Bình, cho biết kinh tế biển đóng góp 15–20% GRDP của tỉnh, trong khi các huyện ven biển chiếm tới 85–90% cơ cấu kinh tế địa phương. Việc sáp nhập với Quảng Trị đã mở rộng không gian phát triển và cho phép tỉnh xây dựng chuỗi giá trị biển từ du lịch, nuôi biển đến năng lượng tái tạo và logistics.
Quảng Bình hiện có cụm di sản thiên nhiên nổi bật như Phong Nha – Kẻ Bàng, là điểm đến du lịch mạo hiểm hàng đầu Đông Nam Á. Nhưng tỉnh đang chuyển mình để trở thành đầu tàu kinh tế biển xanh miền Trung.
Hơn 2.000 MW điện gió gần bờ và ngoài khơi đã được quy hoạch đến 2030. Khu kinh tế Hòn La đang được định hướng trở thành trung tâm hậu cần kỹ thuật cho điện gió, cảng nước sâu và công nghiệp biển phía Bắc Trung Bộ.
Tuyến hành lang Đông–Tây qua Lào – Thái Lan tạo thêm động lực để Quảng Bình trở thành trung tâm logistics xuyên Á, kết nối kinh tế biển – đường bộ – đường hàng không. Đồng thời, vùng biển Hòn La – Vũng Chùa cũng được xác định là khu vực cư trú nhân tạo, góp phần vào tái tạo nguồn lợi thủy sản và phát triển nuôi biển bền vững.
Từ các chính sách cấp quốc gia đến hành động địa phương như Quảng Bình, có thể thấy hướng phát triển kinh tế biển trong giai đoạn tới không thể đơn ngành. Kinh tế biển xanh sẽ phải là hệ sinh thái tích hợp giữa năng lượng tái tạo (điện gió, hydrogen xanh), nuôi biển tuần hoàn, logistics biển – hàng không – cảng nước sâu, bảo tồn đa dạng sinh học và du lịch biển sinh thái.
Điều này đòi hỏi sự điều phối chiến lược từ Trung ương đến địa phương, gắn quy hoạch biển với quy hoạch vùng, đồng thời phát triển nguồn nhân lực biển, đầu tư hạ tầng nghiên cứu – quan trắc – giám sát môi trường biển.
“Tương lai của các quốc gia biển không nằm ở việc khai thác bao nhiêu tài nguyên, mà ở cách họ quản lý và làm giàu từ đại dương một cách bền vững.” - TS. Dư Văn Toán, Viện Khoa học môi trường biển và hải đảo (Bộ Nông nghiệp và Môi trường).